Năm 2010, xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam lại thiết lập một kỷ lục mới với giá trị trên 5 tỷ USD. Theo thống kê chính thức của Hải quan, năm 2010 cả nước XK 1,353 triệu tấn thuỷ sản, trị giá gần 5,034 tỷ USD, tăng 11,3% về khối lượng và 18,4% về giá trị so với năm 2009.
Trong năm 2010, thuỷ sản Việt Nam đã được XK đến 162 thị trường, với sự tham gia của 969 DN Việt Nam.
Top 10 thị trường lớn NK hàng thuỷ sản của Việt Nam đạt 3,420 tỷ USD, chiếm 68% tổng giá trị XK và đều có mức tăng trưởng cao từ 10 – 25% so với năm 2009, trong đó thị trường Pháp tăng trưởng mạnh nhất, 68%.
Thị trường Mỹ đứng đầu về giá trị NK với 971 triệu USD, chiếm khoảng 19,3% tổng giá trị XK thủy sản Việt Nam. Tiếp đến là Nhật Bản 897 triệu USD, chiếm khoảng 17,8%; Hàn Quốc 386 triệu USD, chiếm 7,7%; Trung Quốc và Hồng Kông 247 triệu USD, chiếm 4,9%; Đức 210 triệu USD, chiếm 4,1%; Tây Ban Nha 167 triệu USD, chiếm 3,3%; Ôxtrâylia 152 triệu USD, chiếm 3,0%; Italia 136 triệu USD, chiếm 2,7%; Hà Lan 132 triệu USD, chiếm 2,6%; và Pháp 122 triệu USD, chiếm 2,4%.
Các mặt hàng thuỷ sản XK chính gồm: tôm (2,106 tỷ USD, 42%), cá tra (1,44 tỷ USD, 28,4%), nhuyễn thể (488,8 triệu USD, 9,7%), cá ngừ (293 triệu USD, 5,8%) …
Tôm: Lần đầu tiên XK tôm của Việt Nam vượt con số 2 tỷ USD, với 241.000 tấn, tăng 13,4% về khối lượng và 24,4% về giá trị so với 209.567 tấn và 1,675 tỷ USD của năm 2009. Tôm VN được XK sang 92 thị trường, tăng hơn 10 thị trường so với năm 2009, với sự tham gia của 341 đơn vị XK các mặt hàng tôm (149 DN XK tôm chân trắng, 163 DN XK tôm sú). Có 4 yếu tố chính góp phần cho kết quả XK tôm năm 2010:
– Sự tham gia của tôm chân trắng: Năm 2010, diện tích nuôi tôm chân trắng đạt gần 25.000 ha, tăng 30% so với 2009, sản lượng đạt 135.000 tấn (tăng 50% so với năm 2009 là 89.500 tấn). XK tôm chân trắng cả năm 2010 đạt 62.400 tấn, trị giá gần 414,6 triệu USD (chiếm gần 20% tổng giá trị XK tôm).
– Vai trò chủ lực của tôm sú, đặc biệt là tôm sú cỡ lớn: Năm 2010, diện tích nuôi tôm sú cả nước đạt 613.718 ha, tăng không đáng kể so với năm 2009, tập trung 6 tỉnh ĐBSCL. XK tôm sú cả năm đạt 142.000 tấn, trị giá 1,44 tỷ USD.
– Sự nỗ lực của DN XK tôm trong đa dạng hoá thị trường và sản phẩm: Các DN tôm ngày càng chú trọng đa dạng hoá sản phẩm theo hướng gia tăng giá trị, góp phần làm cho giá trị XK tôm tăng trưởng mạnh hơn khối lượng (khối lượng tôm XK tăng 13%, nhưng giá trị tăng 24% so với năm 2009). Giá trung bình XK tôm năm 2010 đạt khoảng 8,7 USD/kg, tăng 8,8% so với năm 2009.
– Sự chênh lệch cung – cầu trên thị trường thế giới:Sự cố tràn dầu tại vịnh Mêhicô, sự phục hồi kinh tế của các thị trường chính, tình trạng bệnh dịch khiến giảm mạnh sản lượng tôm nuôi hoặc sự cố an toàn thực phẩm ở một số nước sản xuất tôm chính ở Châu Á là những yếu tố và cơ hội lớn cho XK thủy sản Việt Nam nói chung và XK tôm nói riêng trong năm 2010, khi lượng cầu đã cải thiện và lớn hơn lượng cung trên thế giới.
Cá tra: XK cá tra năm 2010 đạt 659.000 tấn, trị giá khoảng 1,427 tỷ USD, tăng 7,4% về khối lượng và 5,2% về giá trị so với năm 2009, đứng thứ 2 về giá trị sau tôm. Năm 2010, có 290 DN Việt Nam XK cá tra sang 140 thị trường.
XK cá tra năm 2010 không đạt mục tiêu 1,5 tỷ USD do một số nguyên nhân: giá XK chưa cao, chất lượng sản phẩm chưa đồng đều, thiếu ổn định, các rào cản thị trường và tình trạng “bôi nhọ” sản phẩm ngày càng tăng, và diễn biến khó khăn nguồn cung cá tra nguyên liệu trong 4 tháng cuối năm.
Nhuyễn thể: XK các sản phẩm nhuyễn thể (mực, bạch tuộc, nghêu…) của Việt Nam đạt 488,8 triệu USD, tăng khoảng 15% so với năm 2009. Có 442 DN XK các mặt hàng nhuyễn thể sang 80 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Cá ngừ: Các sản phẩm cá ngừ của Việt Nam có sự tăng trưởng XK lớn trong năm 2010, tăng 48,9% về khối lượng và 59,9% về giá trị, đạt gần 84.000 tấn, trị giá 293 triệu USD, chiếm tỷ trọng gần 6% trong giá trị XK thủy sản. Ngành hàng này có sự tham gia của 140 DN XK sản phẩm cá ngừ sang 91 thị trường trên thế giới. XK cá ngừ tăng mạnh do nhu cầu thế giới cải thiện đáng kể, tăng lượng tiêu thụ ở các nước phát triển, năng lực cạnh tranh cao của các DN cá ngừ Việt Nam so với các nước XK cạnh tranh và các nguồn cá ngừ nguyên liệu NK đã được cải thiện.