Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều đóng góp quan trọng cho cả nước, nhưng thu hút FDI chưa tương xứng với tiềm năng, vai trò, vị trí của vùng này. Nhìn chuỗi dòng vốn FDI vào đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua cho thấy, vốn này tập trung chủ yếu ở 2 khu vực. Một là, khu “Cửa ngõ” – Long An, Tiền Giang – nhờ lợi thế liền kề TPHCM và thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Hai là, “Tứ giác động lực”: Cần Thơ, Kiên Giang, Cà Mau và An Giang.
Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều đóng góp quan trọng cho cả nước, nhưng thu hút FDI chưa tương xứng với tiềm năng, vai trò, vị trí của vùng này. Nhìn chuỗi dòng vốn FDI vào đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua cho thấy, vốn này tập trung chủ yếu ở 2 khu vực. Một là, khu “Cửa ngõ” – Long An, Tiền Giang – nhờ lợi thế liền kề TPHCM và thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Hai là, “Tứ giác động lực”: Cần Thơ, Kiên Giang, Cà Mau và An Giang.
Kết quả thu hút FDI của vùng “Cửa ngõ” và “Tứ giác động lực” ĐBSCL cho thấy nhờ lợi thế vị trí, cơ sở hạ tầng, việc tập trung đầu tư dồn sức phát triển 3 khâu đột phá: giao thông, thủy lợi, giáo dục – đào tạo và dạy nghề; nhiều nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy nhiên, yêu cầu phát triển vẫn đang đặt ra cho vùng đất giàu tiềm năng này nhiều thách thức phải vượt qua. Một trong những yêu cầu vượt qua thách thức là cần có tư duy, chiến lược thu hút FDI cho vùng và tăng cường liên kết vùng ĐBSCL.
ĐBSCL được xác định là vùng nông sản lớn trong mạng lưới sản xuất toàn cầu; là vùng kinh tế phát triển năng động, bền vững, có môi trường đầu tư thuận lợi… Mục tiêu đó đã định vị ĐBSCL không chỉ trong phạm vi quốc gia mà nhìn ra quốc tế. Nhưng để đạt được mục tiêu đó, phải chọn cách làm, cần một tư duy phát triển, bao gồm cả thu hút đầu tư nước ngoài. Cho đến nay, trong khi nhiều quy hoạch cấp vùng đã được ban hành, vẫn chưa có một chiến lược hay quy hoạch thu hút đầu tư FDI nào cho ĐBSCL. Tác nhân gây “nghẽn mạch” vốn FDI của vùng chính là việc thiếu một chiến lược cho vùng trong chiến lược quốc gia. Tác nhân thứ hai là cách làm rập khuôn, thiếu năng động theo kiểu kêu gọi chung chung, thiếu gắn kết, đặc biệt là cách tiếp cận vốn FDI vẫn theo tư duy “ranh giới hành chính” như cách “vận động” vốn đầu tư của nhà nước.
Chiến lược FDI và tư duy kinh tế vùng trong thu hút đầu tư là động lực để các tỉnh “nắm tay nhau” chia sẻ lợi ích, chia sẻ thị trường, khai thác lợi thế chung của vùng về cơ sở hạ tầng như sân bay, cảng biển, cầu đường, các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực… để tránh đầu tư lãng phí theo kiểu “tỉnh nào cũng có” để rồi không tỉnh nào có cái đáp ứng được yêu cầu nhà đầu tư. Thế mạnh của ĐBSCL, nhìn từ “Cửa ngõ” và “Tứ giác động lực” cần được tập trung khai thác. Với thế tựa lưng với TPHCM, ngước mặt ra biển Đông, kề vai tuyến biên giới Tây Nam, nằm trong bán kính 500km của ASEAN mà vùng châu thổ này là tâm điểm… đã tạo ra thế “địa kinh tế” đặc biệt của ĐBSCL. Nếu gắn kết được các chuỗi giá trị kinh tế sẽ là khâu đột phá để ĐBSCL trở thành một cực thu hút đầu tư và tăng trưởng trong những thập niên tới.
Liên kết vùng được xem là giải pháp có tính chiến lược nhằm đẩy mạnh thu hút có chọn lọc nguồn vốn FDI vào vùng ĐBSCL. Các tỉnh trong vùng, bộ, ngành Trung ương đã có tiếng nói chung. Song, thực tế hoạt động xúc tiến, thu hút đầu tư ĐBSCL trong thời gian qua còn nhiều tồn tại, nút thắt cần tháo gỡ. Lâu nay việc phân bổ vốn và tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch chỉ có 2 cấp: quốc gia và địa phương, “bỏ quên” cấp vùng. Việc xúc tiến xây dựng một đề án tổng thể xúc tiến đầu tư – thương mại du lịch vùng ĐBSCL với những cơ chế, chính sách đầu tư đặc thù đã được nhìn nhận, cam kết, nhưng việc triển khai thực hiện còn quá chậm. Xúc tiến thu hút đầu tư nước ngoài cần dựa trên chiến lược vùng, quy hoạch chung, sự liên kết theo từng chuyên đề, theo ngành, lĩnh vực và theo vùng. Việc khai thác tốt lợi thế các sản phẩm mũi nhọn như lúa gạo, thủy sản, trái cây, công nghiệp năng lượng… vùng ĐBSCL có thể trở thành địa điểm thu hút các nhà đầu tư làm ăn thành công tại vùng kinh tế trọng điểm này.