Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có nhiều đóng góp quan trọng cho cả nước, nhưng thu hút FDI chưa tương xứng với tiềm năng, vai trò, vị trí của vùng này. Năm 2012, trong khó khăn chung của tình hình kinh tế đất nước, toàn vùng trọng điểm nông nghiệp của quốc gia này cũng chỉ thu hút thêm được 83/1.100 dự án đầu tư mới của cả nước, chiếm 7,5% với tổng vốn đăng ký gần 689,8 triệu USD, chỉ bằng 5,3% tổng vốn FDI thu hút mới của cả nước. Luỹ kế đến nay, ĐBSCL có 759 dự án, chiếm 5,2% tổng số dự án FDI với tổng vốn đăng ký hơn 10,951 tỷ USD, chiếm khoảng 5,1% tổng vốn FDI của cả nước.
Nhìn chuỗi dòng vốn FDI vào ĐBSCL thời gian qua cho thấy, tập trung chủ yếu ở 2 khu vực trọng điểm vùng, hiện chiếm hơn 87,3% tổng vốn FDI đăng ký của cả ĐBSCL.
Một là, khu “Cửa ngõ” – Long An, Tiền Giang – nhờ lợi thế liền kề TP. HCM và thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Hai là, “Tứ giác động lực” – TP. Cần Thơ, Kiên Giang, Cà Mau và An Giang.
Đến nay, Long An xếp thứ 15 và Tiền Giang xếp thứ 26/63 tỉnh, thành thu hút vốn FDI nhiều nhất của cả nước với 4,817 tỷ USD vốn đăng ký, chiếm hơn 43,9% tổng vốn FDI của cả vùng ĐBSCL. Bốn địa phương thuộc “Tứ giác động lực” hiện có 116 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư 4,755 tỷ USD, chiếm 43,4% tổng vốn toàn vùng.
Kết quả thu hút FDI của vùng “Cửa ngõ” và “Tứ giác động lực” vùng ĐBSCL cho thấy nhờ lợi thế vị trí, cơ sở hạ tầng, việc tập trung đầu tư dồn sức phát triển 3 khâu đột phá: giao thông, thủy lợi, giáo dục – đào tạo và dạy nghề; nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Tuy nhiên, yêu cầu phát triển vẫn đang đặt ra cho vùng đất giàu tiềm năng này nhiều thách thức phải vượt qua. Một trong những yêu cầu vượt qua thách thức là cần có tư duy, chiến lược thu hút FDI cho vùng và tăng cường liên kết vùng ĐBSCL.
ĐBSCL đã được xác định là vùng nông sản lớn trong mạng lưới sản xuất toàn cầu; là vùng kinh tế phát triển năng động, bền vững, có môi trường đầu tư thuận lợi…
Mục tiêu đó đã định vị ĐBSCL không chỉ trong phạm vi quốc gia mà nhìn ra quốc tế. Nhưng để đạt được mục tiêu đó, phải chọn cách làm, cần một tư duy phát triển, bao gồm cả thu hút đầu tư nước ngoài. Chiến lược FDI và tư duy kinh tế vùng trong thu hút đầu tư là động lực để các tỉnh «nắm tay nhau» chia sẻ lợi ích, chia sẻ thị trường, khai thác «lợi thế dùng chung» của vùng về cơ sở hạ tầng: sân bay, cảng biển, cầu đường, các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực, để tránh đầu tư lãng phí theo kiểu «tỉnh nào cũng có» để rồi không tỉnh nào có cái đáp ứng yêu cầu nhà đầu tư. Thế mạnh của ĐBSCL, nhìn từ “Cửa ngõ” và “Tứ giác động lực” cần được tập trung khai khai thác là vùng sản xuất nông nghiệp lớn, hiện đại.
Vai trò của đảo ngọc Phú Quốc, vị trí ĐBSCL, tuyến hành lang kinh tế trong Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng; thế tựa lưng với TP. Hồ Chí Minh, ngước mặt ra biển Đông, kề vai tuyến biên giới Tây Nam, nằm trong bán kính 500 Km của ASEAN mà vùng châu thổ này là tâm điểm … đã tạo ra thế «địa kinh tế» đặc biệt của ĐBSCL mà sự tiên phong về tư duy phát triển, gắn kết được quá trình liên kết các chuỗi giá trị kinh tế sẽ là khâu đột phá để ĐBSCL trở thành một cực thu hút đầu tư và tăng trưởng trong những thập niên tới.
Liên kết vùng được xem là giải pháp có tính chiến lược nhằm đẩy mạnh thu hút có chọn lọc nguồn vốn FDI vào vùng ĐBSCL. Các tỉnh trong vùng, bộ, ngành trung ương đã có tiếng nói chung, song, thực tế hoạt động xúc tiến, thu hút đầu tư ĐBSCL trong thời gian qua còn nhiều tồn tại, nút thắt cần tháo gỡ.
Lâu nay việc phân bổ vốn và tổ chức cá hoạt động xúc tiến: đầu tư, thương mại, du lịch chỉ có 2 cấp: quốc gia và địa phương, «bỏ quên» cấp vùng; việc xúc tiến xây dựng một đề án tổng thể xúc tiến đầu tư – thương mại du lịch vùng ĐBSCL với những cơ chế, chính sách đầu tư đặc thù đã được nhìn nhận, cam kết, nhưng việc triển khai thực hiện còn quá chậm. Xúc tiến thu hút đầu tư nước ngoài cần dựa trên chiến lược vùng, quy hoạch chung, sự liên kết theo từng chuyên đề, theo ngành, lĩnh vực và theo vùng.