Ngày 15/3, tại Hà Nội đã diễn ra hội thảo “Giải pháp thúc đẩy và nâng cao chất lượng dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam”. Nhiều bài phát biểu thú vị và có tính chất xây dựng đã được trình bày nhằm đóng góp ý kiến hoàn thiện hơn môi trường pháp lý cho FDI tại Việt Nam.
Báo điện tử Diễn đàn đầu tư lựa chọn một số bài tham luận chất lượng và sẽ lần lượt giới thiệu tới bạn đọc. Tòa soạn mong nhận được ý kiến phản hồi của bạn đọc, chuyên gia và nhà quản lý về những vấn đề này. Mở đầu loạt bài này, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài tham luận của tiến sĩ Đỗ Nhất Hoàng, Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và đầu tư) về các vấn đề còn tồn tại trong chính sách thu hút FDI vào Việt Nam hiện nay.
Sau 25 năm thực hiện chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài với việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 (một trong những đạo luật đầu tiên của thời kỳ đổi mới) và Luật sửa đổi bổ sung vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000 và năm 2005, cùng với các văn bản dưới luật, Việt Nam đã xây dựng được một khung pháp lý đồng bộ, thông thoáng, phù hợp với thông lệ quốc tế và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài (ĐTNN).
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là khu vực phát triển năng động, ngày càng phát huy vai trò quan trọng và có những đóng góp đáng kể trong sự phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam, điều này thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư phát triển, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế. Trong bối cảnh tích lũy không đáp ứng nhu cầu về đầu tư, nguồn vốn ĐTNN đã thực sự là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển. Trong giai đoạn 2001 – 2005, ĐTNN đã đóng góp 16% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tỷ trọng này tăng lên 24,8% trong thời kỳ 2006 – 2011.
Thứ hai, ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp. Cơ cấu kinh tế cũng có sự chuyển biến mạnh mẽ theo hướng tích cực. Tỷ trọng ngành nông nghiệp từ chỗ chiếm 80% trong năm 1988, đến năm 2011 chỉ còn chiếm 22%, công nghiệp – dịch vụ chiếm 78%. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực có vốn ĐTNN luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước. Năm 1996, tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực ĐTNN là 21,7% trong khi tốc độ tăng trưởng công nghiệp cả nước là 14,2%. Năm 2000 tốc độ này tương ứng là 21,8% và 17,5%. Năm 2005 là 21,2% và 17,1%, năm 2010 là 17,2% và 14,7%.
Thứ ba, ĐTNN đóng góp đáng kể vào thu ngân sách và các cân đối vĩ mô. Trong 5 năm 2006 – 2010, thu ngân sách trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn 10,5 tỷ USD, tăng bình quân trên 20%/năm. Trong năm 2011, thu nộp ngân sách của khu vực ĐTNN (không kể thu từ dầu thô) đạt 3,5 tỉ USD.
Thứ tư,ĐTNN đóng góp quan trọng vào kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Khu vực ĐTNN chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nếu như năm 1995, khu vực ĐTNN, kể cả dầu thô, chỉ chiếm 27% tổng xuất khẩu cả nước, thì đến năm 2011 đã chiếm 59%.
Thứ năm, ĐTNN đóng vai trò nổi bật trong đổi mới và chuyển giao công nghệ ở Việt Nam. ĐTNN đã tác động trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động đổi mới công nghệ, chuyển giao công nghệ ở Việt Nam và góp phần vào việc tăng cường cơ sở vật chất cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Thứ sáu, ĐTNN góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất lao động, góp phần đào tạo và cải thiện nguồn nhân lực. Tính đến nay, khu vực có vốn ĐTNN đã tạo việc làm cho khoảng 2 triệu lao động trực tiếp và một số lượng lớn lao động gián tiếp khác.
Thứ bảy, ĐTNN đã đưa Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ đối ngoại. Cùng với các nhân tố khác, ĐTNN đã góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ tám, bên cạnh những yếu tố có thể lượng hóa được nêu trên, vai trò của ĐTNN còn thể hiện thông qua những yếu tố không lượng hóa được. Đó là, ĐTNN đã mang đến một phương thức đầu tư kinh doanh mới, từ đó có tác động lan tỏa đến các thành phần kinh tế khác của nền kinh tế, khơi dậy các nguồn lực đầu tư trong nước. Thông qua sự liên kết giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong nước, công nghệ và năng lực quản lý, kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp FDI sang các doanh nghiệp trong nước.
Mặt khác, các doanh nghiệp ĐTNN cũng tạo động lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa, qua đó nâng cao được năng lực của các doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra, ĐTNN đã mở rộng quy mô thị trường trong nước, thúc đẩy sự hình thành và phát triển của nhiều ngành, lĩnh vực dịch vụ cũng như sản phẩm mới. Đồng thời, ĐTNN cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giới thiệu, đưa các sản phẩm hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam vào thị trường quốc tế; tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam; đẩy nhanh tốc độ mở cửa thương mại; tăng khả năng ổn định cán cân thương mại của đất nước.
Mặc dù đã đạt được những kết quả cơ bản quan trọng nêu trên, song việc thu hút, sử dụng và quản lý ĐTNN thời gian qua đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Đó là khả năng hấp thụ nguồn vốn còn khiêm tốn, đồng nghĩa với việc chưa tận dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn này trong khi Việt Nam đang có nhu cầu lớn về vốn; chất lượng của nguồn vốn chưa cao; việc thu hút các dự án đầu tư công nghệ cao còn hạn chế; chuyển giao công nghệ còn chậm; còn có doanh nghiệp ĐTNN sử dụng công nghệ lạc hậu, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường; việc sử dụng tài nguyên đất đai, khoáng sản chưa thực sự hiệu quả; mối liên kết ngang và dọc giữa các doanh nghiệp ĐTNN và doanh nghiệp trong nước chưa cao; tình trạng tranh chấp lao động và đình công còn diễn ra ở một số nơi, ảnh hưởng không tốt đến môi trường đầu tư.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên của khu vực FDI có nguyên nhân từ sự yếu kém nội tại của nền kinh tế cũng như những hạn chế trong việc hoạch định và thực thi chính sách, pháp luật về đầu tư nước ngoài. Các nguyên nhân chủ yếu là:
(i) Hệ thống, pháp luật chính sách liên quan đến đầu tư chưa đồng bộ và thiếu nhất quán.
Trong 25 năm qua, hệ thống pháp luật về đầu tư nói chung và đầu tư nước ngoài nói riêng không ngừng được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu phát triển. Tuy nhiên, trên thực tế, các văn bản pháp luật hiện hành về hoạt động ĐTNN chưa thực sự đồng bộ, rõ ràng, các văn bản pháp luật còn chồng chéo, tạo ra các cách hiểu khác nhau trong quá trình áp dụng ở các cấp.
(ii) Chính sách ưu đãi đầu tư chưa đủ sức hấp dẫn.
Tuy các chính sách ưu đãi của ta thường xuyên được rà soát sửa đổi, bổ sung nhưng còn dàn trải, chưa tập trung đúng mức vào những ngành, lĩnh vực và địa bàn cần thu hút đầu tư. Ví dụ: chính sách ưu đãi đối với đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ chưa có sự khác biệt, đủ sức hấp dẫn so với các ngành khác; chính sách ưu đãi vào những địa bàn cần thu hút đầu tư còn dàn trải giữa các địa bàn khác trong cả nước hoặc có khác thì cũng chưa nổi trội, chưa có tính đột phá. Bởi lẽ, trong 63 tỉnh/thành phố thì hầu hết tỉnh/thành phố nào cũng có địa bàn kinh tế xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.
(iii) Sự phát triển của cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế cũng như chưa tạo điều kiện tốt để dòng vốn ĐTNN phát huy hiệu quả.
Hệ thống cơ sở hạ tầng của Việt Nam, mặc dù đã được đầu tư nhiều trong những năm gần đây, nhưng nhìn chung vẫn còn yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư, đặc biệt là hệ thống cấp điện, nước, đường giao thông, cảng biển, hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp.
(iv) Hạn chế về nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực của Việt Nam dồi dào nhưng tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp, nguồn nhân lực có trình độ cao còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu về lao động của các doanh nghiệp nói chung, trong đó có doanh nghiệp ĐTNN. Đây là hạn chế đã tồn tại từ nhiều năm trước, nhưng trong thời gian gần đây càng trở nên bức xúc hơn khi thu hút ĐTNN các dự án sử dụng công nghệ cao, hiện đại. Trong một nghiên cứu mới đây do Cục Đầu tư nước ngoài phối hợp với Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) tiến hành, thì 32% các nhà đầu tư nước ngoài cho rằng thiếu công nhân lành nghề là nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho họ không sử dụng hết công suất. Vì vậy, lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào với chi phí thấp của Việt Nam đang giảm dần.
(v) Sự phát triển của các ngành công nghiệp hỗ trợ còn hạn chế.
Các ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam phát triển chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu về nguyên liệu đầu vào cho sản xuất của các doanh nghiệp ĐTNN. Do đó, các doanh nghiệp phải nhập khẩu phần lớn các linh phụ kiện đầu vào, làm tăng chi phí, giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu về việc hình thành chuỗi giá trị.
(vi) Chưa thực hiện tốt công tác phân cấp quản lý ĐTNN.
Việc phân cấp cho UBND các địa phương và Ban quản lý KCN – KCX trong quản lý ĐTNN là chủ trương đúng đắn, tạo thế chủ động và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý địa phương trong công tác quản lý hoạt động ĐTNN. Tuy nhiên, việc phân cấp phải đi kèm với luật pháp chính sách rõ ràng, hệ thống quy hoạch đồng bộ; năng lực của các cơ quan được phân cấp phải được nâng cao; công tác báo cáo, cung cấp thông tin của địa phương lên trung ương phải kịp thời; công tác thanh, kiểm tra và xử lý vi phạm phải được thực hiện triệt để; tăng cường sự phối hợp hàng ngang và hàng dọc giữa các cơ quan quản lý chung và cơ quan quản lý chuyên ngành, giữa cơ quan quản lý ở Trung ương với cơ quan quản lý ở địa phương.
Nhưng, trên thực tế, những công tác này chưa được thực hiện tốt trong thời gian qua, đồng thời có hiện tượng một số địa phương trong quá trình xử lý còn thiên về lợi ích trước mắt mà chưa tính đến lợi ích lâu dài, vì lợi ích địa phương mà bỏ qua lợi ích tổng thể quốc gia. Điều này, đã có những ảnh hưởng không tốt đến các cân đối tổng thể của nền kinh tế, ví dụ, có địa phương cấp phép nhiều dự án thép, xi măng làm mất cân đối nguồn cung cấp điện và gây ô nhiễm môi trường.
(vii) Công tác kiểm tra, giám sát về việc thực hiện các quy định về bảo về môi trường của các doanh nghiệp còn nhiều bất cập.
Thời gian qua, công tác này tuy đã được quan tâm hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Bên cạnh những doanh nghiệp chấp hành tốt các quy định về bảo vệ môi trường vẫn còn nhiều doanh nghiệp, dự án ĐTNN chưa chấp hành tốt các quy định này, dẫn đến tình trạng gây ô nhiễm môi trường, sinh thái, ảnh hưởng lâu dài tới đời sống của người dân và làm xấu hình ảnh của ĐTNN.
(viii) Công tác xúc tiến đầu tư chưa hiệu quả.
Trong thời gian qua, công tác vận động xúc tiến đầu tư đã có nhiều cải tiến, được tiến hành ở nhiều ngành, nhiều cấp, ở trong nước và nước ngoài bằng các hình thức đa dạng. Tuy nhiên, hiệu quả của công tác này chưa cao, hoạt động xúc tiến đầu tư còn giàn trải, phân tán nguồn lực, chưa tập trung vào các đối tác, lĩnh vực trọng điểm; chưa có sự thống nhất điều phối để đảm bảo sự tập trung thực hiện đúng mục tiêu thu hút ĐTNN trong từng thời kỳ, từng địa bàn, từng đối tác.
Việt Nam đã bước sang nhóm các nước thu nhập trung bình thấp, nền kinh tế đang đứng trước những nhu cầu phát triển mới. Để đạt được mục được những mục tiêu phát triển mới, Việt Nam đã xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011-2015 và Chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2011-2020.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2011-2020 khẳng định, khu vực FDI là một thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển lâu dài và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Theo đó, việc thu hút ĐTNN cần tập trung vào một số lĩnh vực ưu tiên. Đó là, chọn lọc các dự án có công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường và tăng cường sự liên kết giữa các khu vực; các ngành, lĩnh vực tạo ra các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm có khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, như công nghệ cao, cơ khí, công nghệ thông tin và truyền thông, dược, công nghiệp sinh học; công nghiệp môi trường và các ngành sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, vật liệu mới…. Những dự án tiết kiệm nhiên liệu, không sử dụng nhiều lao động giá rẻ cũng sẽ được ưu tiên.
Bên cạnh đó, một số lĩnh vực khác cũng sẽ được tập trung thu hút đầu tư, như khuyến khích đầu tư vào các khu công nghiệp, khu kinh tế đi liền với dịch vụ phụ trợ; công nghiệp nông nghiệp; chế biến, bảo quản sản phẩm nông nghiệp, gồm cả thủy, hải sản; các lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông, điện, cảng biển, sân bay cũng như các ngành dịch vụ có giá trị cao, tiềm năng lớn như y tế, giáo dục, đào tạo cũng sẽ được ưu tiên, khuyến khích thu hút đầu tư.
Trên tinh thần đó, tại Chỉ thị 1617/CT-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiến hành đánh giá thực trạng hoạt động ĐTNN trong giai đoạn vừa qua và định hướng cho giai đoạn 2011-2020. Việc xây dựng định hướng ĐTNN giai đoạn 2011-2020 được hình thành trên cơ sở đánh giá khách quan thực trạng thu hút ĐTNN thời gian qua, đặc biệt là thời kỳ 2001-2010 và phải gắn với định hướng, mục tiêu Chiến lược Phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020.
Trong lúc chờ đánh giá để có thêm định hướng mới sát thực tế hơn, chúng ta cần tập trung thực hiện tốt 3 khâu đột phá mà Đảng, Chính phủ đã đề ra:
(i) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính; cải thiện môi trường đầu tư theo hướng ngày càng minh bạch, thông thoáng và hấp dẫn nhằm huy động mạnh lẽ mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển.
(ii) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn lao động chất lượng cao, tập trung đổi mới căn bản và toàn diện hệ thống giáo dục và dạy nghề. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, đặc biệt là những ngành nghề lĩnh vực mới, hiện đại.
(iii) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn, gồm rà soát quy hoạch phát triển hệ thống hạ tầng giao thông, xây dựng các tuyến đường bộ cao tốc, giao thông đô thị; xây dựng một số cảng biển, cảng hàng không hiện đại; đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng điện lực; phát triển kết cấu hạ tầng các đô thị lớn; xử lý nước thải, chất thải rắn, khí thải…
Về đầu tư trực tiếp nước ngoài, trước mắt các Bộ ngành, các địa phương cần tập trung thực hiện tốt 3 nhóm giải pháp nêu tại Chỉ thị 1617/CT-TTg ngày 19/9/2011của Thủ tướng Chính phủ, đó là:
(i) Nâng cao chất lượng, hiệu quả FDI.
(ii) Tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI.
(iii) Nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện của các dự án đầu tư.